![]() |
Dấu hiệu nhận biết của rối loạn phổ tự kỷ |
Một số dấu hiệu được liệt kê ở dưới đây cũng có thể xuất hiện ở trẻ bình thường, nhưng nếu chỉ có một hai dấu hiệu và mức độ không trầm trọng, kéo dài thì không phải là điều đáng lo ngại. Những dấu hiệu này xuất hiện ở nhiều trẻ tự kỷ, tuy vậy không phải trẻ nào cũng có tất cả những biểu hiện này. Khi được can thiệp, một số biểu hiện có thể mất đi nhưng những khiếm khuyết cơ bản của tự kỷ thì vẫn tồn tại. Về cơ bản, trẻ tự kỷ có những khiếm khuyết ở 2 lĩnh vực chính:
Giao tiếp xã hội:
Giao tiếp xã hội không chỉ giới hạn trong việc biết nói, mà có nghĩa rộng hơn, bao gồm khả năng thể hiện cả ngôn ngữ nói cũng như ngôn ngữ cơ thể (như nét mặt, cử chỉ) để cho người khác biết điều chúng ta muốn, cảm xúc, mối quan tâm. Người tự kỷ có khó khăn trong giao tiếp xã hội, thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau như sau [7]:
- Khó khăn trong việc bắt đầu hoặc đáp lại các tương tác xã hội, chia sẻ quan tâm, trò chuyện qua lại, hoặc thể hiện cảm xúc.
- Thể hiện hoặc đáp ứng lại với các hành vi giao tiếp không lời, bao gồm tương tác mắt, ngôn ngữ cơ thể.
- Xây dựng hoặc duy trì các mối quan hệ với người khác phù hợp với mức độ phát triển của trẻ/người tự kỷ.
Một số ví dụ về hiểu hiện của trẻ tự kỷ trong khó khăn giao tiếp xã hội [8,9]:
- Có sự chậm trễ về ngôn ngữ: không nói được âm đơn khi 1 tuổi, không nói được từ có hai âm tiết khi 16 tháng tuổi. Có thể mất kỹ năng nói ở bất cứ tuổi nào (thoái triển).
- Nhại lời: Trẻ nhắc lại các từ hoặc cụm từ mà trẻ nghe được.
- Không giao tiếp mắt nhìn mắt với người khác.
- Không tỏ ra quan tâm đến mọi người, ngay cả với bố mẹ, người chăm sóc.
- Ít tỏ ra muốn hoặc không chia sẻ đồ chơi với bạn bè cùng lứa tuổi.
- Không hiểu những biểu cảm nét mặt hoặc giọng nói.
- Không có hoặc ít có đáp ứng khi người khác gọi tên trẻ.
- Không biết sử dụng những cử chỉ thông thường như vẫy tay tạm biệt, gật đầu lắc đầu, chỉ trỏ...
- Không biết chơi giả vờ (ví dụ không biết cho búp bê ăn).
- Không hiểu cách nói đùa, nói bóng gió.
Hành vi khác thường: [7,9,10]
Trẻ tự kỷ thường có những hành vi, sở thích và hoạt động mang tính hạn hẹp và lặp đi lặp lại. Phần lớn trong số các hành vi, quan tâm này của trẻ tự kỷ có vẻ không phù hợp và không có ý nghĩa (về mặt chức năng), tuy nhiên, trẻ tự kỷ lại có thể thấy vui vẻ hoặc cảm thấy bình tĩnh, thoải mái hơn khi thực hiện những hành vi này. Vì thế, thay cho việc cố gắng ngăn, cấm trẻ thực hiện các hành vi đó, chúng ta cần hiểu và cân nhắc điều chỉnh, hoặc sử dụng các hành vi này trong chương trình can thiệp cho trẻ. Một số ví dụ về các hành vi khác thường của trẻ:
- Trẻ tự kỷ thường có xu hướng rất thích các chuyển động lặp lại, như quay tròn, lắc lư, hoặc vẫy tay trước mặt…Chơi với đồ chơi và đồ vật một cách lặp lại, khác thường, ví dụ như: xoay bánh xe, xếp đồ vật thành hàng dài... Không biết chơi tưởng tượng, chơi luân phiên như trẻ bình thường.
- Trẻ có thói quen sinh hoạt rất nghiêm túc và thiếu linh hoạt, ví dụ chỉ ăn một số loại thức ăn, mặc quần áo theo đúng một cách nhất định và đi học đúng một con đường. Một thay đổi nhỏ trong thói quen cũng gây khó khăn cho trẻ.
- Có quan tâm hạn hẹp, ví dụ như khủng long.
- Rối loạn giác quan: Một số trẻ quá nhạy cảm với môi trường xung quanh, ví dụ như nhạy cảm với tiếng ồn như một loại nhạc quảng cáo nào đó, tiếng đèn ống kêu u u, tiếng máy cắt cỏ, máy cắt tóc, nhạy cảm với ánh sáng, mùi, không thích được ôm và âu yếm hay cảm thấy khó chịu, đau khi tiếp xúc với bề mặt chất liệu nào đó. Ngược lại, một số trẻ có ít nhạy cảm với môi trường xung quanh, vì thế trẻ thường có các biểu hiện tìm kiếm cảm giác như thích được ôm chặt hoặc ôm chặt người khác, hoặc không biết đau khi bị đau.
Lưu ý: những đặc điểm này có thể quan sát được ở trẻ, nhưng để kết luận một trẻ có chứng tự kỷ, cần phải có nhà chuyên môn tiến hành các bài kiểm tra đánh giá và sử dụng các công cụ tiêu chuẩn để làm chẩn đoán.
Một số dấu hiệu ‘cờ đỏ’ giúp phát hiện sớm [9]. Khi nhận ra trẻ có những dấu hiệu này, cha mẹ nên đưa trẻ đến cơ sở y tế:
- Chưa biết cười lớn hoặc thể hiện vui mừng khi 6 tháng tuổi.
- Chưa biết đáp ứng qua lại với lời nói, âm thanh, cười hoặc những biểu - cảm khác trên khuôn mặt khi 9 tháng.
- Chưa biết bập bẹ khi 12 tháng.
- Chưa biết sử dụng các điệu bộ như chỉ, cho xem, vẫy tay, với khi 12 tháng.
- Chưa phát âm được từ nào lúc 16 tháng.
- Chưa biết nói (kể cả nhại lại, bắt chước) cụm hai từ lúc 24 tháng.
- Bị giảm bớt khả năng nói, bập bẹ hoặc kỹ năng xã hội ở bất cứ lứa tuổi nào.
0 comments:
Post a Comment